Đánh giá sự hài lòng của người bệnh về dịch vụ khám bệnh yêu cầu tại Khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình

  • Mã bài báo : 140.0108
  • Ngày xuất bản : 30/06/2024
  • Số trang : 60-66
  • Tác giả : Phạm Cẩm Phương
  • Lượt xem : ( 12 )

Danh sách tác giả (*)

  • Phạm Cẩm Phương 1 - Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
  • Phạm Văn Thái - Trường Đại học Y Hà Nội
  • Đinh Đoàn Long - Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
  • Nguyễn Thuận Lợi - Bệnh viện Bạch Mai
  • Trần Thị Lan Anh - Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
  • Bùi Bích Mai - Bệnh viện Bạch Mai
  • Lê Viết Nam - Bệnh viện Bạch Mai
  • Nguyễn Quang Hùng - Bệnh viện Bạch Mai
  • Phạm Văn Tuyến - Bệnh viện Bạch Mai
  • Võ Thị Thúy Quỳnh - Bệnh viện Bạch Mai
  • Phạm Minh Lanh - Bệnh viện Bạch Mai
  • Vũ Bình Thư - Bệnh viện Bạch Mai
  • Vũ Thị Thu Hiền - Bệnh viện Bạch Mai
  • Lê Thị Bích Ngọc - Bệnh viện Bạch Mai
  • Hoàng Quốc Bình - Bệnh viện Bạch Mai
  • Lương Thị Lan Anh - Trường Đại học Y Hà Nội
  • Nguyễn Thị Hoài - Trường Đại học Y Hà Nội
  • Nguyễn Thị Phương Ly - Bệnh viện Bạch Mai
  • Ngô Phương Thủy - Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
  • Nguyễn Hiển - Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội
  • Mai Trọng Khoa - Bệnh viện Bạch Mai

TÓM TẮT

Mục tiêu: Khảo sát tỉ lệ đột biến gen BRCA1/2 ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL), mô tả mối liên quan giữa BRCA1/2 với một số yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân (BN).

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 57 BN UTTTL đã được chỉ định làm xét nghiệm đột biến BRCA1/2 từ tháng 1 năm 2023 đến tháng 7 năm 2023 tại Bệnh viện Bạch Mai.

Kết quả: Độ tuổi trung bình BN là 70,9 ± 7,9 năm, không BN nào phát hiện đột biến gen BRCA1 và 8,8% BN phát hiện đột biến gen BRCA2. BN UTTTL mang BRCA2 ở độ tuổi trẻ hơn so với người không mang BRCA2, lần lượt với trung vị là 66 và 72. Tỉ lệ BN mang BRCA2 có tiền sử gia đình có người thân mắc ung thư cao gấp 3 lần so với nhóm không mang BRCA2 (25% v 7,7%). Tỉ lệ BN mang BRCA2 có điểm Gleason ³ 8 cao hơn (80%), với tính chất khối u có kích thước lớn hơn, tỉ lệ ở giai đoạn T3 là 80%, tỉ lệ di căn hạch 60% và tỉ lệ di căn xa 80% cao hơn so với nhóm người không mang BRCA2 lần lượt 63,5%; 59,6%; 47,1%; 78,8%. Nồng độ tPSA ở nhóm BN mang đột biến BRCA2 có tPSA trung bình và fPSA lần lượt là 160,9 ng/ml; 17,7 ng/ml thấp hơn so với nhóm bệnh nhân không mang đột biến BRCA2 lần lượt là 483,1 ng/ml; 27,7 ng/ml. Tuy nhiên sự khác biệt về tuổi, điểm Gleason, đặc điểm khối u TNM, nồng độ PSA toàn phần và PSA tự do giữa 2 nhóm bệnh nhân UTTTL có mang BRCA2 và nhóm không mang BRCA không có ý nghĩa thống kê p>0,05.

Kết luận: Đột biến BRCA2 có liên quan đến tình trạng mắc UTTTL nặng hơn, ở độ tuổi trẻ hơn, có liên quan đến tiền sử gia đình có người mắc ung thư. Tuy nhiên vì sự khác biệt giữa 2 nhóm mang BRCA2 và nhóm không mang BRCA2 không có ý nghĩa thống kê, cần nghiên cứu trên một cỡ mẫu lớn hơn.

Từ khóa: Ung thư tuyến tiền liệt, đột biến gen BRCA1/2

 

ABSTRACT

INVESTIGATION ON THE RATE OF BRCA1/2 MUTATIONS IN PROSTATE CANCER PATIENTS AT BACH MAI HOSPITAL

Objective: This study aims to investigate the rate of BRCA1/2 mutations, describe the relationship between BRCA1/2 mutations and some clinical factors in patients.

Participants and Method: A cross-sectional study was conducted on 57 prostate cancer patients, who were treated at Bach Mai hospital with BRCA1/2 test from  January 2023 to July 2023.

Results: The average age of study patients was 70.9±7.9 years old, among 57 prostate cancer patients, there was no BRCA1 carriers and 5/57 BRCA2 carriers (accounting for 8.8%). In addition, the porpotion of BRCA2 carriers who had a family history of cancers, was nearly three times the figure for non-carriers (25%, 7.7%, respectively). Likewise, the percentage of BRCA2 carriers with both Gleason score ³ 8, advanced stage (T3) as well as nodal involvement were considerablely higher compared with non-cariers (Gleason score ³ 8: 80% v 63.5%; T3 stage: 80% v 59.6%; N1: 60% v 47.1%; M1: 80% v 78.8% respectively). Moreover, tPSA and fPSA at diagnosis in BRCA2 carriers were at 160.9 ng/ml and 17.7 ng/ml, which were both lower than in non carriers, at 483.1 ng/ml và 27.7 ng/ml, respectively. However, all differences were not statistically significant.

Conclusion: BRCA2 carriers with prostate cancer were diagnosised at younger age, more aggressive and especially more relative to a family history of cancer. However, these differences were not statistically significant so we need to implement a bigger survey in the future.

Keywords: Prostate cancer, BRCA1/2 gene mutation

  • DOI : jocmbmh.140.0108
  • Chủ đề : Ung bướu
  • Loại bài báo : Nghiên cứu gốc
  • Chuyên nghành : Chuyên nghành Y khoa

Chưa có mã code, vui lòng liên hệ để nhận mã theo số điện thoại : 0947040855 - Email : jocm@bachmai.edu.vn

Bài báo liên quan

Nhà tài trợ và đối tác